Đề bài: Phân tích bài thơ “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu.
Xuân Diệu (1916-1985) là nhà thơ tình hay nhất, sung mãn nhất của thời đại chúng ta. Nhà thơ đã để lại hơn 400 bài thơ tình. Ông là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”. Xuân Diệu còn là thi sĩ của mùa thu. Với Xuân Diệu, nếu “Tình không tuổi xuân không hẹn” thì cảnh mùa thu chứa đựng biết bao tình thu, biết bao rung động xao xuyến, bởi “Mùa thu đến – nơi nghe tiếng huyền thoại”.
Trong hai tập thơ viết trước Cách mạng: “Thơ ca” và “Gửi hương cho gió” có nhiều bài thơ viết về sắc thu, hương thu, trăng thu, tình yêu mùa thu, thiếu nữ mùa thu… Mùa thu thật đáng yêu, làm cho tâm hồn nhà thơ như tiếng đàn huyền ảo rung rinh…
“Đây mùa thu tới” là một bài thơ mùa thu tuyệt vời của Xuân Diệu, rút từ tập “Thơ” xuất bản năm 1938. Thu đến, đất trời rung chuyển. Cảnh đẹp, nhưng hơi buồn. Lòng cô gái càng thêm bâng khuâng trong mùa thu.
Ấn tượng đầu tiên của nhà thơ về mùa thu của nhà thơ Xuân Diệu không phải là tiếng chày đập vải, không phải là ấn tượng “Ngô đồng cùng diệp – Thế gian cùng tri kỉ” mà ở hình dáng những hàng liễu, hàng liễu bên đường. bờ hồ. , hoặc lề đường:
“Cây liễu đứng chịu tang,
Tóc buồn rơi theo ngàn giọt lệ.”
Cả không gian “đỏng đảnh”, buồn vắng. Hàng liễu lặng như “đứng đưa tiễn”. Những chiếc lá liễu rủ xuống như mái tóc cô gái “buồn” bên. Lá liễu ướt sương thu tưởng như “ngàn giọt nước mắt”. Cây liễu được nhân hóa “đứng đưa tang”, từ mái tóc liễu đến giọt nước mắt liễu đều mang một nỗi buồn man mác. Một nét liễu, một dáng liễu được miêu tả và cảm nhận đầy chất thơ. Thủ pháp chuyển vần được Xuân Diệu vận dụng nhuần nhuyễn tạo nên những vần giàu thanh điệu, giàu nhạc tính: “buồn – buông – chịu”, “tang – nghìn – hàng”, “buồn – buông – xuôi”. Đó là điểm mạnh, khá mới trong thơ mà Xuân Diệu học được ở trường phái thơ tượng trưng Pháp thế kỷ XIX.
Mê mẩn trước “những hàng cây mất trí nhớ…”, nhà thơ khẽ thốt lên khi chợt nhận ra mùa thu đã về. Cách ngắt nhịp 4/3 với điệp khúc “mùa thu tới” đã diễn tả bước chân của mùa thu và niềm mong ngóng ngày trở về trong lòng nhà thơ:
“Mùa thu đến rồi / mùa thu tới
Với áo mộng đã phai! dệt lá vàng”.
Ba vần lưng diệu: “với – với – với”, một từ láy “đan” tinh tế trong miêu tả và cảm nhận. Mùa thu vừa đến, cỏ cây muôn sắc đổi màu, trở thành những “giấc mơ phai nhòa”. Đâu đó thấp thoáng một vài sắc vàng của lá, đúng chất “lá vàng dệt kim”. Câu thơ “với chiếc áo mơ phai dệt lá vàng” là một câu thơ dung dị, thể hiện tâm hồn của mùa thu qua sắc lá, gợi cảm giác nhẹ nhàng trong sáng về mùa thu yêu kiều.
Có thể nói, tập thơ đầu tiên đã vẽ nên một bức tranh mùa thu đẹp và thơ mộng, thấm đượm nỗi buồn từ cây cỏ đến lòng người nhưng không hề u ám, thê lương làm trĩu nặng lòng người.
Ngày đêm trôi qua, mùa thu đã đến và mùa thu cũng dần trôi qua. Thay đổi cảnh quan. Hoa đã “rụng cành”. Tác giả không nói “hai ba…”, mà viết “hơn một” dùng số từ đó cũng là một cách nói rất mới. Trong vườn, sắc đỏ (những chấm nhỏ) đang dần lấn chiếm, đã và đang “phai màu xanh”! Cũng nói về sự thay đổi đó, trong bài Cảm nghĩ, tiễn biệt nhà thơ Tản Đà đã viết:
“Màu nhuộm quan ở đâu?
Cỏ vàng, cây đỏ, bóng mặt trời xấu xa.”
Trong vườn, hoa lá bắt đầu rụng, cây cối trơ cành như “run rẩy”, hơi “rung rinh” trước những cơn gió thu se se lạnh. Khổ thơ thứ hai, chất thơ ấy, là một sự rung động xao xuyến từ cảnh vật, từ hoa lá, phả hơi vào hồn thi nhân:
“Hơn cả một bông hoa đã rụng cành,
Trong vườn đỏ và xanh;
Run rẩy, rung chuyển lá,
Đôi cành khô, xương gầy yếu”.
Các từ láy: “run rẩy”, “rung rinh”, “mong manh” là nét vẽ huyền ảo gợi tả cái run rẩy, cái rùng mình của chiếc lá chiều thu. Nghệ thuật sử dụng phụ âm “r” (rơi, rơi, run, phấp phới) và phụ âm “m” (một, màu, mong manh) có ý nghĩa thẩm mĩ trong miêu tả và biểu cảm đặc sắc. Đó cũng là một nét mới trong thơ Xuân Diệu. Hoa, lá, cành được nhân hóa gợi lên một nét tàn phai của thiên nhiên trước làn gió thu, khí trời thu dịu mát.
Khổ thơ thứ ba, chất thơ vừa hiện thực vừa tượng trưng, vừa kế thừa vừa cách tân. Cũng có vầng trăng, nhưng là “cô trăng thu mình” giữa bầu trời. Chưa kể trăng non đầu tháng. “Trăng bao nhiêu tuổi, trăng bao nhiêu tuổi” mà lại nói là “cô trăng”. Một hình ảnh đẹp, nên thơ miêu tả vầng trăng mùa thu. Cũng có núi, có núi, lúc ẩn, lúc hiện, “bắt đầu” nhô lên tận cuối chân trời xa, xuyên qua lớp sương mờ của mùa thu. Trăng và núi trong thơ Xuân Diệu chứa đựng hồn thu muôn thuở của quê hương, gần gũi thân quen từ bao đời, được vẽ nên thật đẹp:
“Đôi khi cô gái mặt trăng tự lừa dối mình…
Xa xa, sương bắt đầu tan…”
Hai từ “đã nghe” và “đã vắng” gợi tả không gian bao la, vắng vẻ của những buổi chiều thu dịu mát, gợi sự bâng khuâng, bùi ngùi:
“Tôi nghe trong gió lạnh…
Trên thuyền không có người…”.
Cấu trúc câu song thất và cách thể hiện cũng rất mới. Có sự chuyển đổi cảm giác giữa xúc giác và thính giác. Như vậy, cảm nhận của nhà thơ về cái lạnh, cái gió, cái xa không chỉ bằng giác quan mà bằng cả tâm hồn. Từ “lương” đã cụ thể hóa cái lạnh, cảm nhận nó bằng trực giác. Cái lạnh luôn ở trong gió thu mát lành chứ không phải gió lạnh. Rõ ràng là trời chưa lạnh, là cái lạnh đầu đông, cái lạnh, cái mát của những buổi chiều và những đêm đầu thu.
Khổ thơ cuối là một bức tranh mùa thu tuyệt đẹp. Có vẻ đẹp của thiên nhiên, của mây trời, của chim muông. Trông giống như một cô gái. Cảnh đẹp, người đẹp nhưng hơi buồn mơ hồ. Mây và cánh chim gợi lên nỗi buồn chia ly đẹp như “bèo dạt mây trôi” của tình ca! Nhà thơ đã lấy “sự chuyển động” của cánh chim bay, của đám mây trôi để miêu tả sự tĩnh lặng, yên bình của cõi muông thú và lòng người:
“Mây không bao giờ bay đi.
Thời tiết buồn và cay đắng và chia tay.”
Ở nơi xa vắng tĩnh lặng ấy hiện lên hình ảnh một thiếu nữ “ít nhiều” không rõ lai lịch. Buồn tương tư, “buồn không nói”. Một tư thế “nhìn ra cửa”, một tâm hồn “nghĩ” rất mơ hồ, xa xăm:
“Ít nhiều buồn con gái không nói
Dựa vào cửa, nhìn đi chỗ khác, suy nghĩ cái gì.”
Dù xuân hay thu, hạ hay đông, giữa thiên nhiên muôn màu ấy, hình ảnh người con gái yêu kiều, duyên dáng luôn thấp thoáng trong thơ Xuân Diệu. Nhà thơ đa tình, vậy gái cũng đa tình?
“Trước cửa dừng thêm một tấm gấm,
Hoan hô cô gái có đôi mắt như con thuyền.”
(“Nụ Cười Xuân”- Thơ)
Trong chùm thơ mùa thu của Yên Đổ, tình mùa thu buồn và cô đơn được thể hiện qua hình ảnh ông đồ “ngả gối” trên chiếc thuyền câu “nhỏ” giữa ao thu “lạnh”. “; khi một cố nhân đang ngồi uống ngà trong đêm sâu; cũng có khi là một nhà Nho đang lặng ngắm cảnh thu, muốn cầm bút làm thơ mà chần chừ, ngập ngừng… Trong thơ mùa thu của Xuân Diệu là hình bóng của một người phụ nữ đẹp trong tương lai, mộng mơ.Đó cũng là một nét mới về mùa thu trong thơ Xuân Diệu.Có thể nói trạng thái mơ hồ buồn, buồn vô cớ là một tâm trạng rất tiêu biểu của Hồn thơ Xuân Diệu:
“Ít nhiều buồn tủi con gái đừng nói…”
“Tôi buồn tôi không biết tại sao tôi buồn..”
“Đây mùa thu tới” là một bài thơ mùa thu tuyệt vời của Xuân Diệu. Bao nhiêu nét là bấy nhiêu nét vẽ tài hoa. Dáng thu, sắc thu, tình thu đều đẹp nhưng buồn tạo cảm giác mênh mông, xao xuyến. Hình ảnh thân thương nhất là hình ảnh thiếu nữ, dáng thu yêu kiều mộng mơ “Tựa vào cửa em nghĩ đến điều gì?”. Một trái tim yêu thương, một ngòi bút tài hoa. Cách cảm nhận và cách thể hiện rất mới, rất thơ. Đằng sau sắc thu của đất trời, hoa lá, núi xa, vầng trăng, gió thu se lạnh,… là tiếng thu xao xuyến, xao xuyến trong tâm hồn thi nhân tuổi đôi mươi và trong trái tim của một cô gái trăng tròn. Đoạn thơ cho ta nhiều bâng khuâng về màu thu xưa, mùa thu Hà Nội cách đây hơn nửa thế kỷ.
Các bộ đề lớp 12 khác
Bạn thấy bài viết Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu bên dưới để Kotex Pro có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: kotexpro.com.vn của Kotex Pro
Nhớ để nguồn bài viết này: Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu của website kotexpro.com.vn
Chuyên mục: Văn Học