Đề bài: Phân tích và nêu cảm nghĩ của anh/chị khi đọc “Những ngày đầu nước Việt Nam mới” trích từ hồi ký “Những năm tháng không thể nào quên” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
“Những năm tháng không thể nào quên” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trong những tập hồi ký cách mạng đặc sắc và độc đáo nhất. Những sự kiện chính trị, những câu chuyện lịch sử… được tác giả kể lại, nhận xét, đánh giá đã thể hiện tầm vóc vĩ đại của nhân dân ta, Đảng ta và Bác Hồ trong những năm đầu của nhà nước công nông. Người nông dân bị thù trong, giặc ngoài bủa vây. Hồi ký đã thể hiện bản lĩnh chính trị ngoan cường, nhân cách văn hóa của vị tướng tài khi tái hiện lại những năm tháng không thể nào quên ấy. Tác phẩm này được tác giả viết vào mùa xuân năm 1970 và hoàn thành vào mùa xuân năm 1972.
“Những ngày đầu của nước Việt Nam mới” được trích trong chương XII, phần đầu của hồi ký “Những năm tháng không thể nào quên”. Đoạn một, tác giả dùng phép so sánh để nhận định, đánh giá về lịch sử 25 năm (1945 – 1970) của đất nước và nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch.
Đã lâu lắm rồi, cái ngày mà đất nước Việt Nam của chúng ta không có tên trên bản đồ thế giới. Nước ta có mấy nghìn năm lịch sử, cùng với hai nước láng giềng là Campuchia và Lào, “có một cái tên mơ hồ” do thực dân đặt ra: Ấn Độ thuộc Pháp.
Cũng đã qua lâu rồi, cái ngày nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn là “hòn đảo tự do” hiện ra giữa “bão sóng trên biển cả mênh mông” của chủ nghĩa tư bản ở Đông Nam Á, khi mà “anh em bạn bè còn chưa nhận ra tôi”…
Ngày nay (năm 1970) thời kỳ bão tố của chủ nghĩa đế quốc đã qua. Mọi hành vi của bọn thổ phỉ trên bán đảo Đông Dương đều “bất khả kháng”; mỗi tội ác của chúng gây ra ở đây đều “đánh động đến lương tâm và tình cảm” của hàng trăm triệu người trên trái đất; mọi tô vẽ trát của chủ nghĩa thực dân dành cho ngụy quyền và tay sai “đều vô ích và vô ích”.
Tiếp đó, tác giả đề cập đến một số sự kiện lịch sử như sự ra đời của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được toàn thể nhân loại tiến bộ hoan nghênh ngay. Việc thành lập Chính phủ đoàn kết dân tộc Campuchia đã được hàng chục quốc gia gần xa ghi nhận, cho thấy hiện thực cách mạng vô cùng tươi sáng và lạc quan “hôm nay”. Tác giả nhớ lại “bóng ma dĩ vãng” của hàng trăm vạn quân Trung Quốc Quốc dân đảng, và “ngày tàn” của Tưởng Giới Thạch trên đảo Đài Loan để cho thấy sự thay đổi lớn lao của thế và lực cách mạng mà ông chưa từng thấy. trước. “Khó tưởng tượng được những giờ phút nguy khốn khi gần hai vạn quân Tưởng từ nhiều hướng tiến vào Bắc Bộ”.
Tác giả của hồi ký đã mở ra trước mắt chúng ta một bức tranh lịch sử cách mạng Việt Nam. Những nét tương phản, so sánh được nêu lên một cách ấn tượng, tạo cảm hứng lạc quan, tin tưởng và tự hào trong lòng mỗi độc giả chúng ta.
Đoạn 2, tác giả nhắc lại muôn vàn khó khăn mà cách mạng và nhân dân ta đã phải trải qua trong những ngày đầu. Đảng ta mới mười lăm tuổi đã giành chính quyền, đem lại mùa xuân trên mảnh đất cha ông để lại, nhưng tin vui “không thể báo hết cho bạn bè xa gần”. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời “nằm giữa bốn con sói” vừa phải khôn khéo, dũng cảm đấu tranh để “sống còn”, vừa phải đau đớn tìm những phương sách “cứu vãn tình thế”.
Về chính trị có quá nhiều khó khăn. Tuy đã qua thời kỳ “ẩn mình, ẩn mình, sống giữa nhân dân” nhưng mọi hoạt động của Đảng “vẫn tiến hành một cách bí mật”; cán bộ đảng viên “chưa ra công khai hoạt động”; đa số đảng viên hoạt động “dưới danh nghĩa cán bộ Việt Minh”, thế mà “địch vẫn nhận ra ta”. Chính quyền cách mạng được thành lập đã nhiều ngày “vẫn chưa được nước nào công nhận”. Các tướng lĩnh của Tưởng Giới Thạch coi chính phủ của ta là chính phủ “chỉ tồn tại trên thực tế”, không phải là chính phủ “tồn tại hợp pháp”.
Tình hình kinh tế hết sức khó khăn; Đất đai bỏ hoang, hạn hán, lũ lụt kéo dài, một số xí nghiệp Nhật trở về không hoạt động được, hàng hóa khan hiếm, buôn bán với nước ngoài bị ngưng trệ.
Về tài chính, chúng ta chưa phát hành tiền Việt Nam; két bạc chỉ thắng được một triệu bạc; Ngân hàng Đông Dương “luôn gây rối loạn tiền tệ”; Nhóm Tưởng đã ném rất nhiều tiền Quan Kim khiến tài chính và việc kinh doanh của chúng ta ngày càng “hiểm”.
Đời sống nhân dân ta rất thấp và khó khăn: không có việc làm, nhiều nơi phải ăn cháo, lẻ tẻ có người chết đói, dịch tả phát sinh; Quân Tưởng thêm vào dịch chấy rận.
Cuộc xâm lược của Pháp “nổ rất sớm” ở Nam Bộ, làm cho mọi khó khăn của đất nước, của dân tộc “nặng nề hơn”, làm cho vận mệnh của Tổ quốc ta có lúc như “ngàn cân treo sợi tóc”. “.
Có những lúc chúng ta, những độc giả hôm nay, sau hơn nửa thế kỷ, cảm thấy nghẹt thở khi đọc đoạn hồi ký trên. Đó là thời điểm vô cùng khó khăn khi “con thuyền cách mạng qua bao ghềnh thác”. Tác giả đã truyền lại cho thế hệ hôm nay và mai sau biết cụ thể những khó khăn nguy hiểm mà Bác Hồ và ông cha ta đã phải chịu đựng, phải vượt qua để “trường tồn”. .
Đoạn thứ ba nói về sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ để vượt qua mọi khó khăn thử thách.
Cách mạng đã giành được chính quyền, tuy “mới bắt tay vào làm lần đầu” nhưng tình thế “đã khác trước”. Chúng ta phải “củng cố và giữ vững chính quyền cách mạng” đó là một vấn đề cấp bách.
Từ tuần đầu tháng 9 (1945), Chính phủ lâm thời ban hành nhiều sắc lệnh, sắc lệnh.
Tác giả đã kể lại những chiến công to lớn của chính quyền cách mạng trong những ngày khó khăn đó. Giải tán bộ máy quan lại cũ, đập tan hoàn toàn bộ máy chính quyền của thực dân, phong kiến, quyết định mở cuộc tổng tuyển cử trong cả nước bầu Quốc hội (QH), ra sắc lệnh tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp, toàn dân” do nhân dân trực tiếp bầu ra”. Nhờ đó, chính quyền nhân dân được “củng cố vững chắc ở cơ sở”, khối đoàn kết toàn dân được “mở rộng” để thực hiện “chuyên chính công nông”.
Dự án Hiến pháp đầu tiên được công bố để toàn dân góp ý vào bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Chính phủ ban hành nghị định giảm 25% tiền thuê nhà; xóa hết nợ cũ ở quê; ban hành chế độ ngày làm việc tám giờ; công nhân có quyền tham gia các lớp huấn luyện quân sự, v.v.
Sắc lệnh đặt ra việc bình dân học vụ trong cả nước. Việc học chữ quốc ngữ trở thành bắt buộc và miễn phí.
Thuế thân và nhiều thứ thuế vô lý do chính quyền thực dân áp đặt trước đây “được bãi bỏ”.
Ngày 4 tháng 9, Chính phủ thành lập Quỹ Độc lập và tổ chức Tuần lễ vàng. Có biết bao nghĩa cử cao đẹp và cảm động. Trong một thời gian ngắn, nhân dân cả nước đã quyên góp được hai mươi triệu đồng và ba trăm bảy mươi cân vàng.
Qua đó ta thấy được sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Bác Hồ, nhiệt tình cách mạng và lòng yêu nước của nhân dân ta được khơi dậy, tạo nên một sức mạnh phi thường. Đặc biệt, cuộc cách mạng đã đem lại quyền tự do, dân chủ và quyền công dân cho cả dân tộc. Hơn bao giờ hết, cách mạng và chính quyền cách mạng là của dân, do dân, vì dân.
Đoạn 4, tác giả nói về vai trò của Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng và của dân tộc. Viết thư gửi Uỷ ban nhân dân các tỉnh, huyện và các làng, Người nhắc nhở: “Các cơ quan chính quyền từ cả nước đến các làng đều là đầy tớ của dân”. Người kêu gọi: “Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”. Người nói: Chúng ta phải “dựa vào sức dân, tinh thần của dân” để mưu cầu “hạnh phúc cho đồng bào”, đem lại “hạnh phúc trọn vẹn” cho đồng bào. Đại tướng nói: “Hạnh phúc cho đồng bào” là “lý tưởng của anh”, là “tấm lòng của anh”. Hạnh phúc cho đồng bào là mục tiêu cao cả, thiêng liêng mà chính quyền cách mạng phải phấn đấu, bởi như Người đã nói: “Nước độc lập mà dân không hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Trong bài Tự phê bình, Người chỉ ra bốn khuyết điểm của chính quyền cách mạng, rồi Người thành khẩn nói: “Những thành công được là nhờ công sức của đồng bào. Những khuyết điểm trên là lỗi của chúng ta”.
Tác giả hồi ký đã phân tích, bình luận về mối quan hệ tốt đẹp giữa Nhà nước, chính quyền cách mạng với nhân dân. Nhân dân lao động “đã nhận rõ Nhà nước ngày nay thực sự là Nhà nước của mình”; Nhà nước “đang hàng ngày, hàng giờ bảo vệ lợi ích, đem lại hạnh phúc cho nhân dân”. Và người ta tin rằng “Việc gì bây giờ chưa làm được thì mai sau nhất định sẽ làm được”.
Kết thúc chương XII, Đại tướng có những lời tốt đẹp nói về tấm lòng của nhân dân đối với vị lãnh tụ kính yêu: “Đồng bào nhận thấy ở Bác Hồ hình ảnh biểu tượng cao nhất của nhân dân, của đất nước cách mạng, chính quyền mới, chế độ mới. “.
Hồi ký thường mang tính cá nhân sâu sắc; Hồi ký thường sử dụng phương thức biểu đạt tự sự để kể lại những gì mình đã tham dự, đã sống và hành động, những tâm sự, tình cảm của mình trong quá khứ. Vì vậy, hồi ký phải cực kỳ trung thực.
Hồi ký “Những năm tháng không thể nào quên” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp mang đậm dấu ấn của dân tộc và chính quyền cách mạng. Tác giả đã sử dụng các phương pháp hồi tưởng, tự sự kết hợp với phân tích, bình giảng, đánh giá các sự kiện cách mạng, lịch sử. Chủ thể trữ tình trong hồi ký của Đại tướng là nhân dân ta, Đảng ta, Bác Hồ; Chỉ thấy thấp thoáng nhân vật trữ tình “tôi” xuất hiện. Màu sắc của biên niên sử và biên niên sử là nét riêng, màu sắc riêng làm nên nét độc đáo của “Những năm tháng không thể nào quên”.
Lòng tự hào về Đảng ta, dân tộc ta, lòng kính yêu và biết ơn Bác Hồ vĩ đại là những tình cảm đẹp đẽ, sâu sắc nhất tỏa sáng trên từng trang hồi ký. Sự điềm đạm, khiêm tốn của tác giả chính là vẻ đẹp tâm hồn của vị tướng tài – tác giả “Những năm tháng không thể nào quên” khiến bạn đọc gần xa càng thêm khâm phục.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 luyện thi THPT Quốc gia:
Các bộ đề lớp 12 khác
Bạn thấy bài viết Phân tích, cảm nhận tác phẩm Những ngày đầu của nước Việt Nam mới hay nhất có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Phân tích, cảm nhận tác phẩm Những ngày đầu của nước Việt Nam mới hay nhất bên dưới để Kotex Pro có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: kotexpro.com.vn của Kotex Pro
Nhớ để nguồn bài viết này: Phân tích, cảm nhận tác phẩm Những ngày đầu của nước Việt Nam mới hay nhất của website kotexpro.com.vn
Chuyên mục: Văn Học