Viết bài văn số 2 lớp 11 đề 3: tư cách nhà nho chân chính

Bạn đang xem: Viết bài văn số 2 lớp 11 đề 3: tư cách nhà nho chân chính tại Kotex Pro Dựa vào dàn ý trước đó trong Soạn bài viết bài làm văn số 2 …

Viết bài văn số 2 lớp 11 đề 3: tư cách nhà nho chân chính
Bạn đang xem: Viết bài văn số 2 lớp 11 đề 3: tư cách nhà nho chân chính tại Kotex Pro

Dựa vào dàn ý trước đó trong Soạn bài viết bài làm văn số 2 lớp 11 thì Cmm.edu.vn cũng gợi ý thêm cho những em 2 bài văn mẫu để tìm hiểu tư cách nhà nho chân chính được thể hiện trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát (hoặc Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ) dưới đây:

Văn mẫu viết bài văn số 2 lớp 11 đề 3 – Ngữ văn 11 tập 1

Bài số 1

tư cách nhà nho chân chính qua hai tác phẩm bài ca ngắn đi trên bãi cát và bài ca ngất ngưởng

“Nhất sĩ, nhì nông”

Trong xã hội phong kiến xưa, giai cấp được xếp hạng nhất, được trọng vọng nhất đó là “sĩ”, thường được gọi là những nhà nho. Vậy họ là người nào? Họ làm việc gì và sinh sống ra làm sao? Chúng ta thử tìm hiểu tư cách của nhà nho chân chính qua Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát và Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ.

tư cách là gì? tư cách là tư cách, phẩm chất của con người.

Thế nào là nhà nho? Nhà nho là những người tri thức thời xưa, theo Nho học. Nho giáo là một hệ thống đạo đức, triết lí và tôn giáo do Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. những người thực hành theo những tín điều của Nho giáo được gọi là những nhà nho, nho sĩ hay nho sinh. Nhà nho là người đã học sách thánh hiền, có học vấn, biết lễ nghĩa, biết “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, được thiên hạ cần để dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lí …

tư cách nhà nho chân chính thể hiện trước hết là biết “tu thân”. Trong tu thân, sự học là rất quan trọng. Khổng Tử nói: “Ta đi học là học cho ta, để gây cái phẩm giá của ta”. Mà học là để đỗ đạt trong thi cử. Sau đó “trị quốc”, ra làm quan để kinh bang tế thế, giúp nước giúp đời. Mà làm việc gì Nguyễn Công Trứ cũng làm tới nơi tới chốn. Trong bài ca ngất ngưởng, ông viết:

“Vũ trụ nội mạc phi phận sự,

Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.

Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi tổng đốc Đông,

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.

Lúc bình Tây, cầm cờ Đại tướng,

Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”

Nguyễn Công Trứ liệt kê những vị trí, chức quan ông đã trải qua. Chúng đều là những vị trí cao nhất trong phạm vi của nó: Thủ khoa (đứng đầu khoa thi Hương, tức hương nguyên), Tham tán (đứng đầu đội quan văn tham chiến: Tham tán quân vụ, Tham tán đại thần), Tổng đốc (đứng đầu một tỉnh hoặc vài ba tỉnh), Đại tướng (cầm đầu đội quân bình Trấn Tây), phủ doãn (đứng đầu ở kinh đô). Ngoài ra, ông còn có những hoạt động đa dạng trong ngành kinh tế: khai phá (lập nên hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải), trị thủy (đê sông Hồng); đấu tranh với tệ cường hào ở nông thôn; kiến nghị về quỹ xã thương (dự trữ gạo), về việc cấp tiền dưỡng liêm để chống tham nhũng … Tất cả công việc đều được Nguyễn Công Trứ thực hiện đầy ý thức trách nhiệm, có hiệu quả cao.

Là một nhà nho chân chính, Cao Bá Quát cũng tác động vô cùng lớn của quan niệm “chí làm trai”. Cũng như Nguyễn Công Trứ và bao bậc sĩ phu đương thời, ông luôn tâm niệm và khát khao lập nên công danh sự nghiệp vẻ vang cho đời, coi đso là lí tưởng sống, là trách nhiệm trọn đời và là món nợ phải trả – “nợ tam bồng”. Ông vốn đã sớm được coi như một tài năng xuất chúng khi mới chỉ ít tuổi và càng trưởng thành, ông lại càng tỏ rõ khí phách hiên ngang và hoài bão lớn lao của mình. Năm Tân Mão (1831) đời vua Minh Mạng, ông thi Hương đỗ Á Nguyên tại trường thi Hà Nội, nhưng tới khi duyệt quyển, bị Bộ Lễ kiếm cớ xếp xuống cuối bảng, xếp ông xuống hạng cuối cùng trong số 20 người đỗ cử nhân. Năm Nhâm Thìn (1832), Cao Bá Quát vào kinh đô Huế dự thi Hội nhưng không đỗ. Sau đó, ông vào kinh dự thi mấy lần nữa, nhưng lần nào cũng hỏng. Năm 1841, đời vua Thiệu Trị, được quan tỉnh Bắc Ninh tiến cử, Cao Bá Quát được triệu vào kinh đô Huế bổ làm Hành tẩu ở bộ Lễ. Sau ba năm bị thải về, Cao Bá Quát nhận được lệnh triệu vào Huế (1847) làm ở Viện Hàn lâm, lo việc sưu tầm và sắp xếp  văn thơ.

kế bên tư cách nhà nho chân chính, Nguyễn Công Trứ còn có tính cách của một nhà nho tài tử. Điểm khác biệt cơ bản giữa nhà nho tài tử với người thân nho hành đạo (nhập thế) và nhà nho ẩn dật (xuất thế) là ở chỗ nhà nho tài tử coi “tài” và “tình” chứ không phải đạo đức làm nên trị giá của con người. Nhà nho tài tử quan nhiệm “tài” theo nhiều cách: có thể đó là tài trị nước, cầm quân (kinh luân), có thể là tài học vấn. Nhưng dẫu đã có những tài năng ấy, vẫn nhất thiết phải có thêm tài văn học, văn nghệ, “cầm kì thi họa” và những thứ nghệ thuật tài hoa, và tài năng đó phải gắn với “tình” nữa mới thành nhà nho tài tử:

“Đô môn giải tổ chi niên

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.

Kìa núi nọ phau phau mây trắng,

Tay kiếm cung mà nên dáng từ bi,

Gót tiên theo thủng thẳng một đôi dì

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.

Ông cáo quan về quê, thoát khỏi chốn quan trường năm 1848. Đó cũng chính là thời khắc ông sáng tác bài thơ này. Nguyễn Công Trứ cho mọi người biết rằng ông đã hết làm quan, đã đực tự do, thoát khỏi “cái lồng” làm quan. Hành động của ông lúc từ quan đã làm vượt trội được cái ngông trong con người ông khi khác với những ông quan về ở ẩn bằng ngựa, ông lại quyết định về quê bằng một con bò vàng có đeo nhạc. Ông “ngất ngưởng” ngồi trên lưng bò, được mọi người nhìn theo bằng con mắt hiếu kì, ngạc nhiên. Câu thơ “Kìa núi nọ phau phau mây trắng” tái tạo một phong cảnh tuyệt đẹp, thần tiên. Nguyễn Công Trứ đã dựng nhà và sống chốn thần tiên ấy – núi Đại Nại. Tưởng rằng khi về ở ẩn, ông sẽ sống một cuộc sống giản dị, thanh nhàn theo phong cách của một nhà nho. Thế nhưng, ông đã làm một việc vi phạm pháp luật của nhà nho, hành xử không đúng với việc ông được học: những nàng hầu gái thủng thẳng đi theo ông tới chốn tu hành, lại còn ca hát, đánh đàn. Hành động của ông khiến Bụt cũng phải nực cười, cười cho cái hành động “lạ”, ngông cuồng và “ngất ngưởng”.

“Được mất dương dương người thái thượng

Khen chê phơi phới ngọn đông phong”.

Đối với Nguyễn Công Trứ, “Được” và “mất” là hai chuyện thường tình trong cuộc sống. Ông không buồn khi “mất” cũng chẳng vui khi “được”. Ông chấp nhận những gì cuộc sống mang lại cho ông dù đó là “được” hay “mất” cũng không quan trọng. Ông cứ thưởng thức “Đông phong”, gió xuân rét mướt phe phẩy bên tai, chẳng đáng quan tâm tới “được – mất”, “khen – chê”.

“Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng

Không Phật. không tiên, không vướng tục”.

Nguyễn Công Trứ dù đi chùa nhưng lại dẫn theo hần gái, lại còn gảy đàn và ca hát nơi tôn nghiêm. Thế nhưng ông không thuộc về nơi trần tục ấy, ông không vướng vào thói hư hư tật xấu vì ông là một nhà nho tài tử. Cao hơn đó là ông “ngất ngưởng” hơn trần tục, hơn những đỉnh núi cao danh vọng, ông vượt qua Phật, qua tiên. Nguyễn Công Trứ rất riêng, không giống bất kì người nào.

Khác với Nguyễn Công Trứ, tư cách của nhà nho chân chính Cao Bá Quát lại có những nét đặc biệt: đó là tầm nhìn xa rộng về thế cục, đó là ý thức muốn đổi mới cuộc sống. Trong tác phẩm Bài ca ngắn đi trên cát, Cao Bá Quát đã thể hiện sự khinh thường lợi danh, công danh trong xã hội phong kiến xưa đã bị thối nát. Ông đã trông thấy tư tưởng khắc nghiệt, lạc hậu của Nho giáo:

“Bãi cát lại bãi cát dài,

Đi một bước như lùi một bước.

Mặt trời đã lặn, chưa ngừng được,

Lữ khách trên phố nước mắt rơi”.

Bài can ngắn đi trên bãi cát là một khúc ca ngắn, vậy mà bản thân nó lại vẽ trên một tuyến đường rất dài. Bức tranh mênh mong cát trắng với bóng người nhỏ bé đang bước đi từng bước nặng nhọc. Đi mà như lùi, đi mà như không đi. Đây thực ra là tuyến đường thi cử của chính tác gia. Cái nhọc nhằn của bãi cát cũng là cái nhọc nhằn ông đang phải gánh chịu vì tuyến đường ấy nặng nhọc mà xa vời. Đối với tri thức nho sĩ ngày xưa, tuyến đường hoc – thi – làm quan ấy đầy gian truân vất vả, càng khó khăn hơn trong những buổi cuối của nho học và đây cũng là cách duy nhất để họ thực hiện chí làm trai lập công danh của mình. Bản thân ông ngày càng nhận thức được sự lạc hậu, tha hóa của chế độ học hành thi cử truyền thống trong cái chuyển mình củ thời thế. “Mặt trời lặn” là hình ảnh chuyển giao của thời gian, khi thiên nhiên đã chìm dần vào giấc ngơi nghỉ, thì đối lập với nó là hình ảnh người lữ khách “chưa ngừng được”. Vì sao chưa ngừng được? bởi lẽ đường còn dài mà đích thì chẳng thấy đâu, Cao Bá Quát lại nói tới sự chảy trôi liên tục của thời gian. Tất cả nhường nhịn như đều là lực cản đường, cản trở những bước đi vốn đã đầy nặng nhọc trên cát.

“Xưa nay, phường lợi danh,

Tất tả trên phố đời,

Đầu gió tương đối men thơm quán rượu

Người say vô số, tình bao người?”

tuyến đường lợi danh cũng là một thứ đường đời thật gập gềnh, trắc trở. Công danh được ví như một thứ rượu cám dỗ đời người, khiến con người phải bon chen, phải gạt đi mọi trị giá đạo đức luân lí. Học hành, đỗ đạt rồi vào chốn quan trường để phú quý vinh hoa, tuyến đường lập thân, lập nghiệp ấy sao quá nỗi tầm thường. Lòng nhủ phải làm cái gì đó lớn hơn, cao cả hơn. Nhưng tiếc thay, chẳng mấy kẻ thắng được cái sức lôi cuốn của lợi danh. Số đông này hễ cứ ngửi thấy men thơm là lao đầu vào cho tới say khướt. Những suy nghĩ của Chu Thần đã đi trước thời cuộc của ông và minh chứng cho trí tuệ uyên chưng vượt bậc của danh sĩ họ Cao. Người đọc cũng có thể thái độ khinh miệt, chán ghét của ông với lối quan niệm của những sĩ tử bấy giờ và ông tự hào là kẻ tỉnh hiếm hoi giữa rừng người say ấy. Song đáng buồn thay, ông vẫn đang đi theo tuyến đường này. Trong tâm trí đang tự hỏi mình “tỉnh” hay “say” để rồi lại trút tiếng thở dài:

“Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!

Tính sao đây ? Đường bằng mờ mịt,

Đường ghê sợ còn nhiểu, đâu ít ?

Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”,

Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng,”

Tiếng thở dài chán ngán, mỏi mệt của Cao Bá Quát khi gặp phải sự bế tắc, lòng luôn thao thức thắc mắc: Tính sao đây?”. Khó khăn tiếp nối khó khăn, nhìn bốn bề, đâu đâu cũng chỉ thấy những trắc trở, gian lao muôn trùng. nhường nhịn như, trong ông đang có sự đấu tranh quyết liệt: Một mặt, ông không muốn đi tiếp vì biết đường gian khổ mà vô đích. Mặt khác lại có một tiếng gọi vang lên từ tấm lòng thương dân sâu sắc, đó là cái nợ nước nhà chưa thể trả, nợ công danh thế cục.

“Anh đứng làm chi trên bãi cát?”

thắc mắc vang lên vô vọng giữa bãi cát mênh mông. Nhưng có vẻ kín đáo trả lời cho tranh chấp nội tâm của Cao Bá Quát. Một lần nữa, ông khẳng định tính chất vô nghĩa của tuyến đường “bãi cát” ấy để làm tiền đề cho cái nhìn của mình, cái nhìn sáng suốt: từ bỏ cái cũ lỗi thời để tới với cái mới. tới đây, ta chợt nhớ tới triết lí của Lỗ Tấn: “trên thế gian làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi”. quả tình vậy, thắc mắc tu từ “Anh đứng làm chi trên bãi cát” như là lời thúc giục, là tiếng gọi lên đường, khai phá lối đi mới tiến bộ. Đó cũng là nguyên nhân chính và động cơ xúc tiến Chu Thần đứng ra, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa Mĩ Lương, chống lại triều đình nhà Nguyễn – việc làm để lại tiếng danh muôn thuở khiến thế hệ sau nể sợ khôn nguôn.

Tóm lại, Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ xứng danh là những con người có tư cách nhà nho chân chính. Hai thi sĩ đã có những suy nghĩ rất độc đáo tuy sống trong một xã hội đã bị thấm nhuần tư tưởng khắc nghiệt, lạc hậu của Nho giáo. Với Bài ca ngất ngưởng, Nguyễn Công Trứ chứng tỏ là một nhà nho tài tử, thể hiện rõ sự khác biệt, “ngất ngưởng” trong suy nghĩ của ông về một nhà nho chân chính, không ép mình bị trói buộc, Cao Bá Quát chứng tỏ là một nhà nho có quan niệm sống tiến bộ, có cái nhìn vượt thời đại, là ước muốn cái cách xã hội. Cả Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ đều để lại dấu ấn qua tác phẩm của mình để khẳng định sở thích riêng của mỗi người. vì vậy có thể nói, cả hai thi sĩ đều đáng được đề cao như những nhà nho đã tạo nên một dung mạo mới cho Nho học Việt Nam.

Xem thêm: tư cách nhà nho chân chính của Nguyễn Công Trứ trong Bài ca ngất ngưởng

Bài số 2

tư cách nhà nho chân chính được tái tạo vô cùng cụ thể và lay động

Nhắc tới nhà nho là nhắc tới niềm hoài cổ một thời vang bóng. Tuy ở xã hội hiện đại nó chỉ là hoài niệm thế nhưng có một giai đoạn rất dài nó trở thành niềm tự hào của rất nhiều thế hệ. Và không thể phủ nhận một điều rằng trị giá tư cách ấy vẫn tỏa sáng vĩnh hằng trong mỗi người. Chúng ta càng thấm thía hơn khi đọc Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát và Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, tư cách nhà nho chân chính được tái tạo vô cùng cụ thể và lay động.

tư cách ở đây đó chính là tư cách phẩm giá của mỗi con người. Nhà nho là những người có tri thức thời xưa, theo nho học đọc sách thánh hiền và được thiên hạ vô cùng kính nể. Họ nhìn chung là những người rất hiểu lễ giáo có ích cho quốc gia và cho thiên hạ.

trước tiên ta có thể cảm nhận sự cộng hưởng và điểm chung giữa tư cách nhà nho chân chính mà hai tác giả đề cập tới đó là quan niệm về tuyến đường lợi danh. Song mỗi tác giả lại có một cách bộc lộc khác nhau. nếu như Cao Bá Quát thốt lên mà rằng :

“Bãi cát dài bãi cát dài ơi

Đi một bước như lùi một bước

Mặt trời đã lặn chưa ngừng được

Lữ khách trên phố nước mắt rơi”

Phải chăng bản thân vì quá long đong vớ tuyến đường lợi danh cho nên thi sĩ mới trở nên bi quan tới thế? Ông không còn khát khao mà chán nản khi nhắc tới nó. Bởi vì với ông tuyến đường ấy quá khấp khểnh trắc trở. Ông là người có tài, tri thức uyên thâm thế nhưng có nhẽ sự mục rũa của  thời đại đã hủy hoại đi một con người. Với cách sử dụng hình ảnh tượng trưng bãi cát dài vô cùng sâu sắc, người đi trên bãi cát cũng vô cùng tinh tế. tuyến đường lợi danh dài đằng đẵng khó đi và lắm vất vả, mỏi mệt… Giọt nước mắt không chỉ khóc thương cho bao năm dài miệt mài đèn sách mà quan trọng hơn nó còn xót thương cho một xã hội suy đồi và thối nát. Còn đối với Nguyễn Công Trứ ông lại cảm nhận theo một cách khác:

“Vũ trụ nội mạc phi phận sự

Ông HI Văn tài bộ đã vào lồng”

Nguyễn Công Trứ vô cùng thành công trong tuyến đường công danh sự nghiệp thế nhưng ông cũng không vì vậy mà đề cao tuyến đường làm quan. Thậm chí Nguyễn Công Trứ cũng cảm thấy gò bó ở chốn quan trường. Điều đó được thể hiện rất rõ qua từ “vào lồng”. có nhẽ sống trong thời bất giờ chí làm trai mong muốn làm quan và việc học hành thi cử là để vinh quanh. Có thể với nhiều người có nhẽ sẽ phê phán tuyến đường ấy nhưng đặt trong hoàn cảnh bấy giờ thì họ chẳng còn ngã rẽ nào cho mình cả.

Thế nhưng đối với Cao Bá Quát ông đã thể hiện một sở thích riêng. Không cần cứ phải bon chen vất vả trên tuyến đường ấy. nếu như không có nó thì sẽ có một lối rẽ khác. Đừng để lợi danh nhấn chìm chính bản thân bạn mà hãy dũng cảm vượt qua nó. Và có thể nói trong xã hội bấy giờ Cao Bá Quát là một con người vô cùng tiến bộ khi đã đề cao sự hạnh phúc. Còn đối với Nguyễn Công Trứ ông lại có cách thể hiện mình khác

“Đô môn giải tổ chi niên

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng

Kìa núi nọ phau phau mây trắng

Tay kiếm cung mà nen dạng tằn bi

Gót tiên thủng thẳng một đôi gì

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.

Nguyễn Công Trứ đã thể hiện mình vô cùng ngất ngưởng. Ông luôn tạo nên những sự khác biệt không giống người nào. Ông tự hào về những gì mà mình đã đạt được và cho nó là hơn người khác. Hơn thế nữa  ông còn thể hiện một lối sống vô cùng phóng khoáng vượt lên trên tất cả những lời đồn thổi tầm thường sống không cần để ý tới xung quanh.  Thế nhưng hình ảnh của ông sống mãi trong lòng người dân với hình ảnh vô cùng tốt đẹp và đáng khâm phục. Càng đáng quý hơn đó là đã dám đứng lên thể hiện cái tôi tư nhân của mình, bản ngã của chính mình.

Vẻ đẹp tư cách nhà nho chân chính qua hai tác phẩm bài ca ngắn đi trên bãi cát và bài ca ngất ngưởng thể hiện vô cùng thành công. Mỗi tác giả tuy có một cách thể hiện riêng song nó đều thể hiện được tâm hồn  của kẻ sĩ và tạo thành dấu ấn độc đáo trong lòng độc giả mãi sau này.

Vậy là Cmm.edu.vn đã dợi ý tới những em 2 bài văn mẫu tìm hiểu tư cách nhà nho chân chính của Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ thông qua 2 bài thơ ngắn, mong rằng với nội dung này những em sẽ hoàn thiện bài viết số 2 lớp 11 tốt nhất!

Xem thêm:

>> Hình ảnh người phụ nữ xưa qua bài Tự tình và Thương vợ

>> tư cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát

[Văn mẫu 11] Viết bài văn số 2 lớp 11 đề 3: tư cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát (hoặc Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ)

Bản quyền bài viết thuộc trường THPT thành Phố Sóc Trăng. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!

Nguồn chia sẻ: Trường Cmm.edu.vn (thptsoctrang.edu.vn)

Bạn thấy bài viết Viết bài văn số 2 lớp 11 đề 3: tư cách nhà nho chân chính có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Viết bài văn số 2 lớp 11 đề 3: tư cách nhà nho chân chính bên dưới để Kotex Pro có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: kotexpro.com.vn của Kotex Pro

Nhớ để nguồn bài viết này: Viết bài văn số 2 lớp 11 đề 3: tư cách nhà nho chân chính của website kotexpro.com.vn

Chuyên mục: Văn Học

Xem thêm bài viết hay:  Viết đoạn văn ngắn bàn về Lối sống ảo ở một bộ phận giới trẻ hay nhất

Viết một bình luận